Nguồn Gốc Của Tín Ngưỡng Tôn Giáo

Nhiều người cho rằng tôn giáo và tín ngưỡng là những sự việc thiêng liêng, huyền bí.

Tín ngưỡng thật ra xuất phát từ sự sợ hãi của con người trong thời tiền sử.

Tín ngưỡng, và tôn giáo, sau đó phát triển mạnh mẽ qua các thời văn minh thô sơ do sự thiếu kiến thức của con người về vũ trụ chung quanh họ.

Bản năng sinh tồn tự nhiên của con người

Bản năng tự nhiên của con người là tìm tòi và chinh phục. Đây là một bản năng then chốt để con người sinh tồn và tiến hóa.

Khi đứng trước một vấn đề, con người biết 1/ xác định vấn đề đó là gì, rồi 2/ tìm một giải pháp thích hợp nhất để giải quyết vấn đề này, và rồi 3/ quan sát, suy luận và nếu cần sẽ cải tiến để đi đến một giải pháp mới hiệu quả hơn. Phương cách giải quyết vấn đề trên giúp con người thành công trong việc bành trướng khắp địa cầu.

Khi người tiền sử kiếm ăn, họ tự hỏi phải làm sao để hái được những trái cây trên cao hay săn giết được những thú vật chạy nhanh bay cao. Áp dụng phương cách trên, họ dần dần tìm chế ra được các dụng cụ và võ khí hiệu nghiệm hơn để thực hiện việc này.

Tương tự, họ tự hỏi phải làm sao để chống lại sự lạnh lẽo của mưa gió hay để bảo vệ họ khỏi phải bị thú dữ ăn thịt. Dùng phương cách trên họ dần dần tìm chế ra được những tấm lá cây hay da thú để bao bọc giữ cho cơ thể họ được ấm hay biết dựng lên rào cản trước hang động để không cho thú dữ xâm nhập trong khi họ ngủ. Rồi họ biết dùng lửa, làm quần áo, xây nhà, v.v. cho những mục đích này. Mỗi lần họ tự hỏi tại sao để giải thích và phải làm sao để chinh phục một vấn đề, họ tìm chế ra một phương tiện khác hay hơn, tốt hơn giúp họ chống chỏi với thiên nhiên trong cuộc tranh đấu liên tục để sống còn của họ.

Tuy nhiên có những sự việc xảy ra chung quanh người tiền sử mà họ không hiểu tại sao và không biết làm cách nào để kiểm soát hay chinh phục chúng. Thí dụ như những hiện tượng thiên nhiên (núi lửa, động đất, mưa bão, lũ lụt, hạn hán, v.v.) hay những tai ương (bệnh tật, tai nạn, chết chóc, cá nhân sát hại lẫn nhau, chiến tranh giữa bộ lạc, v.v.)

Danh sách các sự việc này kéo dài vô tận và họ bất lực không có cách giải quyết. Khả năng trí tuệ và kiến thức hạn hẹp về vũ trụ của họ không cho phép họ giải thích được những vấn đề nghiêm trọng trên. Trong khi đó, bản năng sinh tồn của họ kêu gào đòi hỏi họ phải tìm ra một giải đáp, một lối thoát ra khỏi ngõ cụt này với bất cứ giá nào.

Sự ra đời của thần linh và Thượng Đế

Một trong những lãnh vực tiến hóa mà loài người phát triển hơn các thú vật khác là họ có trí tưởng tượng.

Nhờ có trí tưởng tượng loài người mới có thể hình dung được những sự vật không hiện diện thật sự trước mặt họ. Nhờ vậy họ mới có thể chế tạo ra được những dụng cụ chưa từng hiện hữu bao giờ trước đó, có thể hoạch định những việc làm mà họ chưa bao giờ làm cả; nhờ vậy họ mới có thể đặt ra những sự việc và kể lại câu chuyện chưa bao giờ xảy ra, v.v.

Khả năng tưởng tượng này cũng đem lại cho con người một lối thoát ra khỏi ngõ cụt sinh tồn như vừa kể trên.

Con người tưởng tượng ra những sức mạnh siêu nhiên hoàn toàn bên ngoài khả năng điều khiển của họ. Họ cho rằng tất cả những hiện tượng không giải thích được và những tai ương đều xuất phát từ các sức mạnh này.

Kinh nghiệm trong đời sống của họ cho họ thấy nếu không chinh phục được một mối hiểm nguy thì cách tốt nhất để sinh tồn là hoặc 1/ trốn tránh hoặc 2/ thần phục nó. Vì không thể trốn tránh tai họa được nên họ tin rằng muốn hạn chế nó xảy ra cho họ thì chỉ có cách là thần phục và tôn thờ các sức mạnh siêu nhiên trên.

Với lối suy nghĩ và lý luận giản dị của họ, con người trong thời đại văn minh thô sơ nhân tính hóa các sức mạnh siêu nhiên tưởng tượng trên và đặt để cho chúng những vai trò liên quan đến các hiện tượng và tai ương này. Từ đó các thần linh ra đời.

Thần núi lửa gây ra núi lửa. Thần mưa, thần gió, thần sấm sét làm ra bão tố mưa gió. Thần sông, thần biển, thần rừng cai trị và tạo ra những hiểm nguy trên sông,  ngoài biển, trong rừng. Các thú dữ cũng được cho là thần linh: thần cọp, thần rắn, thần chim ưng, thần cá sấu. Tiếp theo là thần cây, thần đá, thần mùa màng, thần sinh sản, thần tình yêu, thần chiến tranh, thần hòa bình, v.v. và v.v.

Vì danh sách các hiện tượng con người không hiểu biết và không kiểm soát được kéo dài bất tận nên danh sách các thần linh trong lịch sử con người cũng kéo dài bất tận.

Khi một nhóm người có quá nhiều thần linh nên lẽ tự nhiên theo họ là phải có nhiều hạng thứ, nhiều cấp bậc thần linh khác nhau. Đó là vì trong xã hội con người cũng có nhiều hạng thứ, cấp bậc khác nhau. Và khi có hạng thứ, cấp bậc thì sẽ phải có một vị thần cao nhất, mạnh nhất, thiêng liêng nhất so với tất cả các thần linh khác. Từ đó Thượng Đế của nhóm người này ra đời.

Mỗi nhóm người, mỗi chủng tộc sống trong mỗi môi trường khác nhau. Họ đối diện với những hiện tượng bí ẩn khác nhau, có những nỗi sợ hãi khác nhau. Do đó những nhóm người khác nhau tôn thờ nhiều nhóm thần linh khác nhau và do đó có nhiều Thượng Đế khác nhau. Sự khác nhau này đưa đến nhiều nhóm tín ngưỡng, và từ đó nhiều tôn giáo khác nhau.

Nói cách khác:

-Con người đã từ sự sợ hãi dẫn đến niềm tin về thần linh. Họ đoán rằng, và dần dần “tin” rằng, có những sức mạnh huyền bí và những thần linh sau lưng các hiện tượng họ không giải thích và kiểm soát được.

-Họ đoán thêm rằng, và dần dần “tin” rằng, họ có thể liên lạc và mua chuộc các thần linh này giúp đỡ họ bằng cách tôn thờ, dâng cúng các lễ vật. Đây là những “niềm tin” của con người trong thời văn minh thô sơ.

-Những niềm tin, hay tín ngưỡng, này trở thành nền tảng của tín ngưỡng và tôn giáo trong nhân loại cho đến ngày nay.

-Tín ngưỡng trở thành một nhu cầu cơ bản của con người. Nhu cầu này là một phần của quá trình tiến hóa và đóng vai trò quan trọng trong sự sinh tồn của nhân loại. Nhu cầu tín ngưỡng đứng ngay đàng sau các nhu cầu thiết yếu khác như cơm ăn, áo mặc và tình dục.

Tóm Lược Về Tôn Giáo

Tín ngưỡng và tôn giáo phát xuất từ nhu cầu cần phải trấn an các nỗi sợ hãi, xoa dịu những mất mát đau khổ và cung cấp hy vọng trong đời sống của con người ở những xã hội sơ khai.

Tuy kiến thức và điều kiện sinh sống ngày nay nói chung của con người đã tiến bộ vượt bực, các nhu cầu này vẫn còn cần thiết và vẫn có sức quyến rũ mãnh liệt.

Không có gì thiêng liêng hay huyền bí về nguồn gốc và sự thành hình của tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy vậy, con người có khuynh hướng dễ bị lôi cuốn bởi những gì bí ẩn và siêu nhiên.

Vì những yếu tố trên, tín ngưỡng và tôn giáo vẫn sống còn và thịnh hành hơn bao giờ cả.

Tuy có những tác dụng ích lợi vừa kể, tôn giáo tín ngưỡng cũng có những hậu quả phụ với ảnh hưởng tai hại to lớn cho xã hội và con người.

Nền tảng của tôn giáo tín ngưỡng nói chung dựa trên mê tín dị đoan, có nghĩa là những sự kiện vô căn cứ, không thể kiểm chứng hay xác định khách quan trong thực tế. Tôn giáo cũng là một công cụ tẩy não, kiểm soát, kềm chế và đàn áp hữu hiệu nhất của nhân loại.

Tuy vậy mình không có ý định muốn bài trừ, dẹp bỏ tôn giáo vì mình cho rằng không bao giờ tín ngưỡng và tôn giáo có thể bị tiêu diệt cả. Không những thế, mình không chủ trương tiêu diệt tín ngưỡng và tôn giáo.

Mình cũng không có ý định thuyết phục tín đồ từ bỏ tôn giáo của họ.

Mình thấy một sự cần thiết để trình bày về bản chất thật sự của tín ngưỡng và tôn giáo. Đó là vì tín ngưỡng và tôn giáo ảnh hưởng trực tiếp đến an sinh của mọi người trong xã hội.

Khái niệm “đức tin” được dùng trong tôn giáo để giải thích những tín điều không thể giải thích hay chứng minh được bởi lý luận hay kiến thức khoa học.

Theo mình thì đức tin của một người chỉ là quan niệm tâm linh cá nhân của riêng người ấy. Không ai do đó nên áp đặt đức tin của một cá nhân, hay của một tôn giáo, vào đời sống của người khác.

Mình cũng cho rằng đức tin của một người, hay của một tôn giáo, không có ưu quyền “bất khả xâm phạm”. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng không có nghĩa là không thể chỉ trích những điều huyễn hoặc và tệ hại trong tôn giáo.

Đức tin, cũng như tôn giáo, của một người không phải chỉ là một vấn đề riêng tư của riêng họ mà thôi. Do đó không cần thiết phải luôn luôn tôn trọng niềm tin của người khác nếu niềm tin này mang đến các tai hại cho xã hội.

Trong lãnh vực tâm linh, cũng như mọi lãnh vực khác trong đời sống, một người cần phải đóng vai trò “khán giả” lẫn “giám khảo”. Mình không chấp nhận những điều mê tín huyễn hoặc. Mình dựa vào các tiêu chuẩn lý luận bình thường trong đời sống hằng ngày để chất vấn, phê phán về tín ngưỡng và tôn giáo.

Những người phê bình, chỉ trích tôn giáo thường chịu đựng nhiều sự kỳ thị và bất lợi. Chỉ trích tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo, thường bị xem là đồng nghĩa với “làm việc cho Việt Cộng”.

Có nhiều định nghĩa khác nhau của từ “vô thần”. Người Việt Nam đặc biệt có định kiến xấu về từ “vô thần”.

Mình là một người phi tôn giáo, phi tín ngưỡng. Có thể nói rằng mình là một người vô thần theo định nghĩa “mình không thấy có bằng chứng gì làm cho mình tin vào sự hiện hữu của thượng đế hay thần linh”.

Vô thần không phải là một tôn giáo hay một tổ chức. Một người vô thần có thể có những cảm nghĩ tâm linh của họ. Một người vô tôn giáo có những tự do và sức mạnh tâm linh mà một tín đồ không có.

Có người cho rằng tôn giáo là nền tảng của đạo đức, nhất là tôn giáo của họ. Mình thì cho rằng:

– Đạo đức là một sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên của con người. Đạo đức không phải là một sản phẩm của tôn giáo.

– Đạo đức hiện hữu không cần sự có mặt của tôn giáo.

– Các tôn giáo chỉ thu dụng một số những tiêu chuẩn đạo đức đã sẵn có vào hệ thống tín ngưỡng của họ. Cho rằng “nhờ tôn giáo mới có đạo đức” là tiếm đoạt sự thành công trong lãnh vực đạo đức của quá trình tiến hóa tự nhiên.

Mình công nhận rằng tôn giáo góp phần không nhỏ trong việc phổ biến và duy trì một số tiêu chuẩn đạo đức.

Sản phẩm và mục tiêu chính của tôn giáo thật ra không phải là đạo đức mà là những hứa hẹn đem lại sự an ổn tâm linh khi con người đối đầu với những câu hỏi không thể trả lời được về lãnh vực siêu hình, thí dụ như “chuyện gì sẽ xảy ra sau khi chết?”

Mình cũng cho rằng:

– Những an ổn tâm linh kể trên chỉ là tạm bợ và giả tạo.

– Những gì một tôn giáo cho là “đạo đức” không nhất thiết có giá trị tuyệt đối trong không gian và thời gian.

– Không phải tôn giáo nào cũng hướng thiện và có những đạo đức của tôn giáo không phải là đạo đức chân chính.

Tín đồ thường dùng nhiều phương cách lý luận để bênh vực cho giá trị tâm linh và bản chất đạo đức của tôn giáo, tuy vậy mình cho rằng những lý luận đó đều là ngụy biện (fallacies).

Tôn giáo nào cũng có những tín đồ cực đoan và cuồng tín. Tuy vậy, phần đông các tín đồ của mỗi tôn giáo đều nằm trong một thành phần mình gọi là “trung hòa”.

Tín đồ “trung hòa” thật ra thường chỉ là những người “pha loãng” và biến cải một số tín điều trong tôn giáo họ mà chính họ cũng không chấp nhận để làm chúng thích hợp hơn với quan điểm của mình.

Khuyết điểm và tai hại lớn nhất của cương vị “trung hòa” trong tôn giáo là việc gián tiếp dung dưỡng và bảo tồn các ảnh hưởng xấu của tôn giáo lên xã hội và con người.